Soạn văn 8 ngắn nhất bài: Muốn làm thằng Cuội

Soạn bài: “Muốn làm thằng Cuội” - ngữ văn 8 tập 1 ngắn gọn nhất. Nhằm giúp học sinh giảm bớt thời gian soạn bài nhưng vẫn đảm bảo nắm đủ ý, baivan giới thiệu các em tổ hợp bài soạn cực ngắn, siêu ngắn và ngắn nhất. Từ đó, học sinh có thêm lựa chọn bài soạn phù hợp với của mình. Soạn “Muốn làm thằng Cuội” cực ngắn – baivan.

[toc:ul]

I. Câu hỏi trong bài học:

Bài tập 1: Trang 156 sgk ngữ văn lớp 8 tập 1 

Hai câu đầu là tiếng than và lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng. Theo em, vì sao Tản Đà có tâm trạng “chán trần thế”?

Bài tập 2: Trang 156 sgk ngữ văn lớp 8 tập 1 

Nhiều người đã nhận xét một cách xác đáng rằng, Tản Đà là một hồn thơ “ngông”. Em hiểu "ngông” nghĩa là gì ? (bộc lộ một thái độ như thế nào đối với cuộc sống)? Hãy phân tích cái “ngông” của Tản Đà trong ước muốn được làm thằng Cuội (chú ý các câu 3 - 4, 5 - 6).

Bài tập 3: Trang 157 sgk ngữ văn lớp 8 tập 1

Phân tích hình ảnh cuối bài thơ: Tựa nhau trông xuống thế gian cười. Em hiểu cái cười ở đây có ý nghĩa gì?

Bài tập 4: Trang 162 sgk ngữ văn lớp 8 tập 1

Theo em, những yếu tố nghệ thuật nào đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ?

LUYỆN TẬP

Bài tập 1: Trang 157 sgk ngữ văn lớp 8 tập 1

Nhận xét về phép đối trong hai câu câu 3 - 4 và 5 - 6 của bài thơ.

Bài tập 2: Trang 157 sgk ngữ văn lớp 8 tập 1

So sánh ngôn ngữ và giọng điệu ở bài thơ này với bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan (đã học ở lớp 7).

Phần tham khảo mở rộng

Bài tập 1: Giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ  Muốn làm thằng Cuội

Bài tập 2:  Ý nghĩa nhan đề bài thơ Muốn làm thằng Cuội

Bài tập 3: Cái "ngông" của Tản Đá được thể hiện như thế nào trong bài thơ Muốn làm thằng cuội

Bài tập 4:  Viết một đoạn văn nêu cảm nhận về bài thơ Muốn làm thằng cuội.

II. Soạn bài siêu ngắn: Muốn làm thằng Cuội

Bài tập 1:  Tản Đà có tâm trạng “chán trần thế” vì: cộng hưởng của nỗi buồn đêm thu (cái buồn thường tình của thi sĩ) với nỗi chán đời, chán trần thế. Cuộc sống bế tắc, tù túng của xã hội thực dân phong kiến. Thân phận người dân nô lệ làm sao mà vui được mà không chán - chán còn bởi vì Tản Đà mang một niềm đau riêng tài cao nhưng phận thấp. Vì không đủ sức để thay đổi hiện thực bi kịch ấy nên ông muốn thoát ra khỏi nó.

Bài tập 2: Em hiểu "ngông” nghĩa là:

  • Từ lâu, ông đã được mệnh danh là một hồn thơ "ngông", vua ngông. “Ngông” là thái độ bất cần đời, là dám làm điều trái lẽ thường, không sợ dư luận khen chê. Trong xã hội phong kiến “ngông” là thái độ phóng túng coi thường khuôn phép trói buộc cá tính.
  • Cái “ngông” của Tản Đà được thể hiện:
  • Là ước muốn được làm thằng Cuội ở trên cung trăng để giãi bày những nỗi niềm sâu kín của mình, ước mơ lẫng mạn.
  • Đầu tiên là một câu ướm hỏi, sau đó là một lời cầu xin “Cành đa xin chị nhắc lên chơi”, thể hiện sự tự tin của tác giả.
  • Cái “ngông”  còn được thể hiện cả ở cách xưng hô với chị Hằng (chị - em).
  • Trong cõi trần, tác giả luôn cảm thấy buồn vì sự cô đơn, trống vắng, khoắc khoải đi tìm những tâm hồn tri âm, tri kỉ.
  • Ước mơ thoát khỏi cuộc sống tù túng, buồn chán hiện tại nơi trần thế để đến với một không gian mộng tưởng. 

Bài tập 3: Em hiểu cái cười ở đây có ý nghĩa:

  • Thể hiện niềm vui vì đã thoát li được cõi trần nhiều bụi bặm, xấu xa; vừa là sự mỉa mai, khinh bỉ của nhà thơ khi đứng trên một tầm vóc cao hơn nhìn xuống trần gian lúc này thật bé nhỏ.
  • Chế giễu cuộc đời trần tục đầy những cái xấu xa, chật hẹp, nhỏ nhoi làm cho con người phát chán.
  • Cái cười ngông của một thi sĩ đa tình khi định ở bên một người đẹp nhất cõi trời mà ai ai cũng ao ước.

Bài tập 4: Bài thơ được viết như một lời tâm sự, trả lòng của tác giả và những yếu tố nghệ thuật về ngôn ngữ, lời thơ, sức tưởng tượng, luật thơ đường… đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ

LUYỆN TẬP

Bài tập 1: Theo luật thơ Đường, các cặp câu trên nhất thiết phải đối nhau. Hai cặp câu trên đối nhau như sau:

  • Câu 3 – 4 : đối về hình ảnh, hoạt động, ý tứ. (cung quế >< cành đa)
  • Câu 5 – 6: đối về ý là chính. (đã ai ngồi đó chửa >< xin chị nhắc lên chơi)
  • Nhịp thơ (2/2/3) và từ loại phù hợp nhau.

Bài tập 2: So sánh ngôn ngữ và giọng điệu ở bài thơ này với bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.

Giống nhau:

  • Cả hai bài thơ đều thể hiện nỗi buồn của thi nhân.
  • Đều được sáng tác theo thể thơ thất ngôn bát cú, đều tuân thủ khá chặt chẽ nguyên tắc của thơ Đường luật.

Khác nhau

  • Ở bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan: thể hiện nỗi buồn kín đáo “ta với ta”, thuật dùng từ và diễn tả tài tình, đọc lên lòng ta có một cảm giác bâng khuâng, một nỗi buồn man mác. Sử dụng thành thạo các từ láy, từ tượng hình, tượng thanh và cách chơi chữ đồng âm trong thơ. Ngôn ngữ trong bài thơ thể hiện sự trang trọng mực thước mang màu sắc cổ kính.
  • Bài thơ Muốn làm thằng Cuội thể lộ nỗi niềm rõ ràng hơn:“Buồn lắm chị Hằng ơi”, “Chán nữa rồi”. Lời thơ giản dị, trong sáng, gần gũi với những lời nói thường ngày , không khuôn sáo và có nét phóng túng, ngông nghênh của một hồn thơ lãng mạn. Tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ.

Phần tham khảo mở rộng

Bài tập 1: Giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ  Muốn làm thằng Cuội

Nội dung: Bộc lộ tâm sự của tác giả về nỗi buồn nhân thế do bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa. Thể hiện khát vọng muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

Nghệ thuật:

  • Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, ngôn ngữ dân dã đời thường và mang nét mới khi thể hiện cái tôi trong bài thơ.
  • Hồn thơ lãng mạn, pha chút ngông nghênh đáng yêu.
  • Giọng thơ hóm hỉnh, kết hợp giữa tự sự và trữ tình.
  • Sử dụng câu hỏi tu từ, câu cầu khiến, điệp từ, nhân hóa đã thể hiện rõ hơn tâm trạng của nhà thơ

Bài tập 2:  Ý nghĩa nhan đề bài thơ Muốn làm thằng Cuội

  • Thể hiện ước muốn làm một nhân vật cổ tích, được sánh đôi với chị Hằng trên cung trăng và gửi gắm ước mơ sống ở cõi mộng.
  • Tác giả muốn rời cõi thực để đến với cõi mơ  vì  chán ghét thực tại, cuộc sống với quá nhiều bất công, đau khổ. Thể hiện ước muốn của tác giả về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bài tập 3: Cái "ngông" của Tản Đá được thể hiện như thế nào trong bài thơ Muốn làm thằng cuội

Tản Đà – thi sĩ khởi đầu cho nền thơ ca lãng mạn, với một cá tính mới và đầy thi vị mang đến cho thơ ca hơi thở mới của thời đại.. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã bộc lộ rõ tâm trạng chán chường thực tại, khát vọng muốn thoát li thực tại, lên cung trăng cùng bầu bạn với chị Hằng. Đặc biệt, chất sầu và mộng, ngông và đa tình của nhà thơ được thể hiện rất rõ trong bài thơ trên.

Ngông có thể hiểu là một tính cách, là những hành động gây nên sự chú ý của số đông, những hành động ngông thường mang tính chất ngang tàng, phóng túng, đùa cợt. Ngông cũng là một cách sống, cách sống ấy vượt ra ngoài khuôn khổ của xã hội đương thời, trở thành một thách thức với xã hội đó. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội tiêu biểu cho cá tính khác biệt của Tản Đà trong thi đàn văn chương lúc đó,

Trước hết, chất “ngông” trong bài thơ thể hiện ở nỗi buồn chán thực tại và muốn thoát li vào cõi mộng. Mở đầu bài thơ là một lời than thở, một nỗi sầu da diết nhưng cũng là một tâm sự rất chân thành:

                        Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

                        Trần thế em nay chán nửa rồi.

Trong đêm thu với ánh trăng sáng rọi, tỏa ánh sáng chan hòa khắp nhân gian. Và lòng thi sĩ như muốn thổ lộ những tâm tư, tình cảm chẳng biết nói cùng ai. Tác giả sử dụng cách gọi “chị - em” với chị Hằng trên cung trăng, thể hiện sự thân thiết, gần gũi để có thể giãi bày, chia sẻ. Nỗi buồn ấy được tác giả thể hiện rất cụ thể “buồn lắm – trần thế - chán nửa rồi”. Câu thơ man mác sự buồn và chán. Tìm hiểu về thời thế thực tại mà tác giả đang sống, chúng ta thấu hiểu hơn tâm trạng của nhà thơ. Nước ta những năm đầu thế kỉ XX sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến ngột ngạt, thối nát, nhân dân ta chìm đắm trong cảnh lầm than khổ cực. Là một thi sĩ đa sầu, đa cảm, đứng trước thực tại nhưng chẳng thể đổi thay điều gì, vì thế mà tâm trạng thi nhân như bế tắc trước thực tại và chán nản, bất mãn với thời cuộc. Bởi vậy tác giả đành gửi gắm ước mơ lên cõi mộng:

                        Cung quế đã ai ngồi đó chửa

                        Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Nỗi buồn của nhà thơ bắt nguồn từ đó và vì thế người muốn tìm lối thoát, muốn sống ở một thế giới khác – thế giới của thần tiên và mơ mộng. Lời đề nghị của thi nhân đưa ra thật dịu dàng, duyên dáng và hóm hỉnh. Câu thơ đưa ra để hỏi nhưng cũng là lời đề nghị, lời cầu xin được đưa vào cõi mộng. Lời đề nghị ấy là một ước muốn ngông cuồng, ngạo nghễ bởi thế giới thần tiên chỉ là cõi mộng xa xôi. Ông muốn được lên cung trăng để nhìn xuống thế gian, muốn đứng hơn người để mà trông, mà ngắm, mà suy xét việc đời. Bởi ở nơi ấy, nhà thơ không phải chứng kiễn những nỗi buồn nhân thế, nỗi đau của người con mất nước.

Khát vọng lên cung trăng với chị Hằng, thể hiện cuộc sống tốt đẹp, được tự do làm bạn với gió, với mây:

                         Có bầu có bạn can chi tủi

                        Cùng gió, cùng mây thế mới vui

Câu thơ diễn tả niềm vui thích, suong sướng của thi nhân khi nghĩ về cõi mộng. Nơi ấy có bầu bạn, có cuộc sống ngao du chứ không phải là một thực tại đầy bức bối và kìm hãm con người. Tác giả sử dụng điệp từ “có”, “cùng” và cách ngắt nhịp 2/2/3 tạo nên giọng thơ vui tươi, rộn ràng. Thi sĩ lên cung quế có bạn, có bè quên đi nỗi ngán ngẩm, chán nản và giải toả được nồi buồn – ông đã vui, đã cười – ông cười tất cả những giành giật, nhố nhăng nơi trần thế, cười sung sướng khi thấy cõi trần không ai được như ông, được hưởng cuộc sông thần tiên thoát tục.

Ước muốn làm thằng Cuội được thể hiện rõ ràng hơn trong hai câu thơ cuối:

                      Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

                     Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Chất “ngông” ấy của Tản Đà được thể hiện trong mạch cảm xúc của bài thơ. Từ tâm trạng buồn tủi, chán nản với thực tại ở cõi thực, tác giả gửi gắm mong ước được sống trong cõi mộng. Để từ đó được vui, được cười, được sánh đôi cùng chị Hằng cưỡi trăng lượn gió. Và ước muốn xa hơn là được tựa vai bên chị Hằng để cùng nhìn xuống thế gian. Chữ “cười” được đặt cuối bài thơ như thể hiện rõ nhất ước muốn của nhà thơ. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi trong ước vọng được thoát tục, rồi bỏ được trần ai mà lên tiên. Cười còn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những sầu khổ, cô đơn dưới kia.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật cổ điển nhưng vẫn để lai dấu ấn của tác giả với cách sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị và thể hiện rõ tâm trạng cá nhân. Tản Đà muốn sống thoải mái hơn bởi thời đại đang chuyển động, khẳng định cái tôi cá nhân một cách mạnh mẽ. Những mong muốn và cá tính riêng được trân trọng. Bài thơ đã thể hiện rõ phong cách thơ của thi nhân, muốn xa rời cõi tục và mơ mộng gửi hồn vào cõi mơ, để được cười và thoát khỏi những khổ đau trong cõi nhân gian nhỏ bé. Qua đó, cũng thể hiện ước muốn của tác giả về một cuộc sống tốt đẹp hơn nơi trần thế.

Bài thơ đã khiến chúng ta hiểu hơn về Tản Đà, nhà thơ của những vần thơ đậm chất ngông. Có lẽ đó là cách mà thi nhân ứng xử với thời cuộc hiện tại. Nó còn gắn liền với cá tính phóng túng của nhà thơ. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã bộc lộ tâm sự của tác giả, thể hiện nỗi buồn nhân thế do bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa và khát vọng muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

Bài tập 4:  Viết một đoạn văn nêu cảm nhận về bài thơ Muốn làm thằng cuội

Qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội, Tản Đà đã bộc lộ những tâm sự về nỗi buồn nhân thế, về thực tại của xã hội đầy rẫy những áp bức,bất công và khát vọng muốn thoát li thực tại để đến với cõi mộng. Bài thơ được viết theo thể thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với ngôn ngữ giản dị, gần gũi thể hiện những tâm sự sâu lắng trong tâm hồn thi nhân. Hai câu đầu mở ra như một lời tâm sự chân thành của tác giả về nỗi sầu bi, chán ghét cuộc sống thực tại, nơi người dân phải chịu bao lầm than ai oán mà không có cách nào thoát ra. Trước nỗi buồn đó, tác giả đã gửi gắm ước mơ được đến với chị Hằng, với cung trăng để bầu bạn với mây cao gió mát. Đó cũng là ước muốn về một cuộc sống thanh cao, tốt đẹp hơn, nơi ấy con người được tự do và chan hòa với thiên nhiên. Chất mộng ảo, mong muốn thoát tục, lãng mạn thấm đượm trong bài thơ, khiến thi nhân như tạm quên đi những đau khổ và buồn chán trong cuộc sống thực tại. Tư thế ngồi “tựa lưng”, thảnh thơi ngắm nhìn từ trên tầng cao của vũ trụ, cùng nhìn xuống mà nở nụ cười thách thức nhân gian ô trọc, bé nhỏ, hèn mọn. Hình ảnh này đã thể hiện đậm nét sự lãng mạn và cái ngông của Tản Đà, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Cái cười ở lời kết của bài thơ như thể hiện niềm vui, thỏa mãn ước mong về khát vọng thoát li, xa lánh bụi trần nhưng đó cũng là tiếng cười mỉa mai, khinh bỉ cõi trần.

III. Soạn bài ngắn nhất:  Muốn làm thằng Cuội

Bài tập 1:  Tản Đà có tâm trạng “chán trần thế”:

- Cộng hưởng của nỗi buồn đêm thu với nỗi chán đời, chán trần thế. 

- Cuộc sống bế tắc, tù túng của xã hội thực dân phong kiến. 

- Chán thân phận người dân nô lệ.

- Mang một niềm đau riêng tài cao nhưng phận thấp. 

- Vì không đủ sức để thay đổi hiện thực bi kịch ấy nên ông muốn thoát ra khỏi nó.

Bài tập 2: Em hiểu "ngông” nghĩa là:

  • “Ngông” là thái độ bất cần đời,  dám làm điều trái lẽ thường, không sợ dư luận khen chê, thái độ phóng túng coi thường khuôn phép trói buộc cá tính.
  • Cái “ngông” của Tản Đà được thể hiện:
  • Ước muốn được làm thằng Cuội ở trên cung trăng (giãi bày những nỗi niềm sâu kín của mình) => ước mơ lãng mạn.
  • Câu ướm hỏi, sau đó là một lời cầu xin => sự tự tin của tác giả.
  • Xưng hô với chị Hằng chị - em.
  • Cõi trần luôn cảm thấy buồn vì sự cô đơn, trống vắng, khoắc khoải đi tìm những tâm hồn tri âm, tri kỉ.

=> Ước mơ thoát khỏi cuộc sống tù túng, buồn chán hiện tại nơi trần thế để đến với một không gian mộng tưởng. 

Bài tập 3: Em hiểu cái cười ở đây có ý nghĩa:

  • Thể hiện niềm vui vì đã thoát li được cõi trần nhiều bụi bặm, xấu xa.
  • Sự mỉa mai, khinh bỉ của nhà thơ khi đứng trên một tầm vóc cao hơn nhìn xuống trần gian lúc này thật bé nhỏ.
  • Chế giễu cuộc đời trần tục đầy những cái xấu xa, chật hẹp làm cho con người phát chán.
  • Cái cười ngông của một thi sĩ đa tình khi định ở bên một người đẹp nhất cõi trời mà ai ai cũng ao ước.

Bài tập 4: Yếu tố nghệ thuật về:  ngôn ngữ, lời thơ, sức tưởng tượng, luật thơ đường… đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ.

LUYỆN TẬP

Bài tập 1: Hai cặp câu trên đối nhau như sau:

  • Câu 3 – 4  => đối về hình ảnh, hoạt động, ý tứ. (cung quế >< cành đa)
  • Câu 5 – 6 => đối về ý là chính. (đã ai ngồi đó chửa >< xin chị nhắc lên chơi)

=> Nhịp thơ (2/2/3) và từ loại phù hợp nhau.

Bài tập 2: So sánh Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.

Giống nhau:  Đều thể hiện nỗi buồn của thi nhân, thể thơ thất ngôn bát cú, đều tuân thủ khá chặt chẽ nguyên tắc của thơ Đường luật.

Khác nhau

Qua Đèo Ngang

- Thể hiện nỗi buồn kín đáo “ta với ta”, thuật dùng từ và diễn tả tài tình, đọc lên lòng ta có một cảm giác bâng khuâng, một nỗi buồn man mác. Các từ láy, từ tượng hình, tượng thanh và cách chơi chữ đồng âm trong thơ được sử dụng thành thạo. Ngôn ngữ trong bài thơ thể hiện sự trang trọng mực thước mang màu sắc cổ kính.

Muốn làm thằng Cuội

- Thể lộ nỗi niềm rõ ràng hơn, lời thơ giản dị, trong sáng, gần gũi với những lời nói thường ngày , không khuôn sáo và có nét phóng túng, ngông nghênh của một hồn thơ lãng mạn. 

Phần tham khảo mở rộng

Bài tập 1: Giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ  Muốn làm thằng Cuội

1. Nội dung: Bộc lộ tâm sự của tác giả về nỗi buồn nhân thế do bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa.=> khát vọng  muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

2. Nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, ngôn ngữ dân dã đời thường và mang nét mới khi thể hiện cái tôi trong bài thơ, Hồn thơ lãng mạn, pha chút ngông nghênh đáng yêu, Giọng thơ hóm hỉnh, kết hợp giữa tự sự và trữ tình, Sử dụng câu hỏi tu từ, câu cầu khiến, điệp từ, nhân hóa đã thể hiện rõ hơn tâm trạng của nhà thơ

Bài tập 2:  Ý nghĩa nhan đề: ước muốn làm một nhân vật cổ tích, được sánh đôi với chị Hằng trên cung trăng và gửi gắm ước mơ sống ở cõi mộng, muốn rời cõi thực để đến với cõi mơ vì  chán ghét thực tại, cuộc sống với quá nhiều bất công, đau khổ.=> ước muốn của tác giả về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bài tập 3: Cái "ngông" của Tản Đá được thể hiện như thế nào trong bài thơ Muốn làm thằng cuội

Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã bộc lộ rõ tâm trạng chán chường thực tại, khát vọng muốn thoát li thực tại, lên cung trăng cùng bầu bạn với chị Hằng. Đặc biệt, chất sầu và mộng, ngông và đa tình của nhà thơ được thể hiện rất rõ trong bài thơ trên.

Ngông có thể hiểu là một tính cách, là những hành động gây nên sự chú ý của số đông, những hành động ngông thường mang tính chất ngang tàng, phóng túng, đùa cợt. Ngông cũng là một cách sống, cách sống ấy vượt ra ngoài khuôn khổ của xã hội đương thời, trở thành một thách thức với xã hội đó. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội tiêu biểu cho cá tính khác biệt của Tản Đà trong thi đàn văn chương lúc đó,

Trước hết, chất “ngông” trong bài thơ thể hiện ở nỗi buồn chán thực tại và muốn thoát li vào cõi mộng. Mở đầu bài thơ là một lời than thở, một nỗi sầu da diết nhưng cũng là một tâm sự rất chân thành:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Trong đêm thu với ánh trăng sáng rọi, tỏa ánh sáng chan hòa khắp nhân gian. Và lòng thi sĩ như muốn thổ lộ những tâm tư, tình cảm chẳng biết nói cùng ai. Tác giả sử dụng cách gọi “chị - em” với chị Hằng trên cung trăng, thể hiện sự thân thiết, gần gũi để có thể giãi bày, chia sẻ. Nỗi buồn ấy được tác giả thể hiện rất cụ thể “buồn lắm – trần thế - chán nửa rồi”. Câu thơ man mác sự buồn và chán. Tìm hiểu về thời thế thực tại mà tác giả đang sống, chúng ta thấu hiểu hơn tâm trạng của nhà thơ. Nước ta những năm đầu thế kỉ XX sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến ngột ngạt, thối nát, nhân dân ta chìm đắm trong cảnh lầm than khổ cực. Là một thi sĩ đa sầu, đa cảm, đứng trước thực tại nhưng chẳng thể đổi thay điều gì, vì thế mà tâm trạng thi nhân như bế tắc trước thực tại và chán nản, bất mãn với thời cuộc. Bởi vậy tác giả đành gửi gắm ước mơ lên cõi mộng:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Nỗi buồn của nhà thơ bắt nguồn từ đó và vì thế người muốn tìm lối thoát, muốn sống ở một thế giới khác – thế giới của thần tiên và mơ mộng. Lời đề nghị của thi nhân đưa ra thật dịu dàng, duyên dáng và hóm hỉnh. Câu thơ đưa ra để hỏi nhưng cũng là lời đề nghị, lời cầu xin được đưa vào cõi mộng. Lời đề nghị ấy là một ước muốn ngông cuồng, ngạo nghễ bởi thế giới thần tiên chỉ là cõi mộng xa xôi. Ông muốn được lên cung trăng để nhìn xuống thế gian, muốn đứng hơn người để mà trông, mà ngắm, mà suy xét việc đời. Bởi ở nơi ấy, nhà thơ không phải chứng kiễn những nỗi buồn nhân thế, nỗi đau của người con mất nước.

Khát vọng lên cung trăng với chị Hằng, thể hiện cuộc sống tốt đẹp, được tự do làm bạn với gió, với mây:

Có bầu có bạn can chi tủi

Cùng gió, cùng mây thế mới vui

Câu thơ diễn tả niềm vui thích, suong sướng của thi nhân khi nghĩ về cõi mộng. Nơi ấy có bầu bạn, có cuộc sống ngao du chứ không phải là một thực tại đầy bức bối và kìm hãm con người. Tác giả sử dụng điệp từ “có”, “cùng” và cách ngắt nhịp 2/2/3 tạo nên giọng thơ vui tươi, rộn ràng. Thi sĩ lên cung quế có bạn, có bè quên đi nỗi ngán ngẩm, chán nản và giải toả được nồi buồn – ông đã vui, đã cười – ông cười tất cả những giành giật, nhố nhăng nơi trần thế, cười sung sướng khi thấy cõi trần không ai được như ông, được hưởng cuộc sông thần tiên thoát tục.

Ước muốn làm thằng Cuội được thể hiện rõ ràng hơn trong hai câu thơ cuối:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Chất “ngông” ấy của Tản Đà được thể hiện trong mạch cảm xúc của bài thơ. Từ tâm trạng buồn tủi, chán nản với thực tại ở cõi thực, tác giả gửi gắm mong ước được sống trong cõi mộng. Để từ đó được vui, được cười, được sánh đôi cùng chị Hằng cưỡi trăng lượn gió. Và ước muốn xa hơn là được tựa vai bên chị Hằng để cùng nhìn xuống thế gian. Chữ “cười” được đặt cuối bài thơ như thể hiện rõ nhất ước muốn của nhà thơ. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi trong ước vọng được thoát tục, rồi bỏ được trần ai mà lên tiên. Cười còn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những sầu khổ, cô đơn dưới kia.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật cổ điển nhưng vẫn để lai dấu ấn của tác giả với cách sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị và thể hiện rõ tâm trạng cá nhân. Tản Đà muốn sống thoải mái hơn bởi thời đại đang chuyển động, khẳng định cái tôi cá nhân một cách mạnh mẽ. Những mong muốn và cá tính riêng được trân trọng. Bài thơ đã thể hiện rõ phong cách thơ của thi nhân, muốn xa rời cõi tục và mơ mộng gửi hồn vào cõi mơ, để được cười và thoát khỏi những khổ đau trong cõi nhân gian nhỏ bé. Qua đó, cũng thể hiện ước muốn của tác giả về một cuộc sống tốt đẹp hơn nơi trần thế.

Bài thơ đã khiến chúng ta hiểu hơn về Tản Đà, nhà thơ của những vần thơ đậm chất ngông. Có lẽ đó là cách mà thi nhân ứng xử với thời cuộc hiện tại. Nó còn gắn liền với cá tính phóng túng của nhà thơ. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã bộc lộ tâm sự của tác giả, thể hiện nỗi buồn nhân thế do bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa và khát vọng muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

Bài tập 4:  Viết một đoạn văn nêu cảm nhận về bài thơ Muốn làm thằng cuội

Bài thơ được viết theo thể thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với ngôn ngữ giản dị, gần gũi thể hiện những tâm sự sâu lắng trong tâm hồn thi nhân. Hai câu đầu mở ra như một lời tâm sự chân thành của tác giả về nỗi sầu bi, chán ghét cuộc sống thực tại, nơi người dân phải chịu bao lầm than ai oán mà không có cách nào thoát ra. Trước nỗi buồn đó, tác giả đã gửi gắm ước mơ được đến với chị Hằng, với cung trăng để bầu bạn với mây cao gió mát. Đó cũng là ước muốn về một cuộc sống thanh cao, tốt đẹp hơn, nơi ấy con người được tự do và chan hòa với thiên nhiên. Chất mộng ảo, mong muốn thoát tục, lãng mạn thấm đượm trong bài thơ, khiến thi nhân như tạm quên đi những đau khổ và buồn chán trong cuộc sống thực tại. Tư thế ngồi “tựa lưng”, thảnh thơi ngắm nhìn từ trên tầng cao của vũ trụ, cùng nhìn xuống mà nở nụ cười thách thức nhân gian ô trọc, bé nhỏ, hèn mọn. Hình ảnh này đã thể hiện đậm nét sự lãng mạn và cái ngông của Tản Đà, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Cái cười ở lời kết của bài thơ như thể hiện niềm vui, thỏa mãn ước mong về khát vọng thoát li, xa lánh bụi trần nhưng đó cũng là tiếng cười mỉa mai, khinh bỉ cõi trần.

IV. Soạn bài cực ngắn: Muốn làm thằng Cuội

Bài tập 1:  Tản Đà có tâm trạng “chán trần thế”: nỗi buồn đêm thu với nỗi chán đời. Cuộc sống bế tắc, tù túng của xã hội thực dân phong kiến. Chán thân phận người dân nô lệ, tài cao nhưng phận thấp, không đủ sức để thay đổi hiện thực bi kịch ấy.

Bài tập 2: "Ngông” nghĩa là: thái độ bất cần đời,  dám làm điều trái lẽ thường, không sợ dư luận khen chê, thái độ phóng túng coi thường khuôn phép trói buộc cá tính.

Cái “ngông” của Tản Đà được thể hiện: Ước muốn được làm thằng Cuội ở trên cung trăng, câu ướm hỏi, sau đó là một lời cầu xin (tự tin), xưng hô với chị Hằng chị - em,  cảm thấy buồn vì sự cô đơn, trống vắng khi ở chốn trần gian, ước mơ thoát khỏi cuộc sống tù túng.

Bài tập 3: Em hiểu cái cười ở đây có ý nghĩa: niềm vui vì đã thoát li được cõi trần nhiều bụi bặm, xấu xa. Mỉa mai, khinh bỉ của nhà thơ khi đứng trên một tầm vóc cao hơn nhìn xuống trần gian lúc này thật bé nhỏ. Chế giễu cuộc đời trần tục đầy những cái xấu xa. 

Bài tập 4: Yếu tố:  ngôn ngữ, lời thơ, sức tưởng tượng, luật thơ đường => sức hấp dẫn cho bài thơ.

LUYỆN TẬP

Bài tập 1: Hai cặp câu trên đối nhau như sau:

Câu 3 – 4: cung quế >< cành đa => đối về hình ảnh, hoạt động, ý tứ.

Câu 5 – 6: đã ai ngồi đó chửa >< xin chị nhắc lên chơi => đối về ý là chính. 

Bài tập 2: So sánh Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.

Giống nhau:  Đều thể hiện nỗi buồn của thi nhân, thể thơ thất ngôn bát cú, đều tuân thủ khá chặt chẽ nguyên tắc của thơ Đường luật.

Qua Đèo Ngang

1. Thể hiện nỗi buồn kín đáo “ta với ta”, thuật dùng từ và diễn tả tài tình, đọc lên lòng ta có một cảm giác bâng khuâng, một nỗi buồn man mác. 

2. Các từ láy, từ tượng hình, tượng thanh và cách chơi chữ đồng âm trong thơ được sử dụng thành thạo. 

3. Ngôn ngữ trong bài thơ thể hiện sự trang trọng mực thước mang màu sắc cổ kính.

Muốn làm thằng Cuội

  1. Thể lộ nỗi niềm rõ ràng hơn, lời thơ giản dị, trong sáng, gần gũi với những lời nói thường ngày.
  2. Không khuôn sáo và có nét phóng túng, ngông nghênh của một hồn thơ lãng mạn. 
  3. Phần tham khảo mở rộng

Bài tập 1: Giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ  Muốn làm thằng Cuội

Nội dung: Bộc lộ tâm sự của tác giả về nỗi buồn nhân thế, khát vọng  muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

Nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, ngôn ngữ dân dã đời thường. Hồn thơ lãng mạn, pha chút ngông nghênh đáng yêu, Giọng thơ hóm hỉnh, kết hợp giữa tự sự và trữ tình, Sử dụng câu hỏi tu từ, câu cầu khiến, điệp từ, nhân hóa đã thể hiện rõ hơn tâm trạng của nhà thơ

Bài tập 2:  Ý nghĩa nhan đề: 

  1. Ước muốn làm một nhân vật cổ tích, được sánh đôi với chị Hằng trên cung trăng và gửi gắm ước mơ sống ở cõi mộng.
  2. Muốn rời cõi thực để đến với cõi mơ vì  chán ghét thực tại, cuộc sống với quá nhiều bất công, đau khổ.

=> ước muốn của tác giả về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bài tập 3: Cái "ngông" của Tản Đá được thể hiện như thế nào trong bài thơ Muốn làm thằng cuội

Tản Đà – thi sĩ khởi đầu cho nền thơ ca lãng mạn, với một cá tính mới và đầy thi vị mang đến cho thơ ca hơi thở mới của thời đại.. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã bộc lộ rõ tâm trạng chán chường thực tại, khát vọng muốn thoát li thực tại, lên cung trăng cùng bầu bạn với chị Hằng. Đặc biệt, chất sầu và mộng, ngông và đa tình của nhà thơ được thể hiện rất rõ trong bài thơ trên.

Ngông có thể hiểu là một tính cách, là những hành động gây nên sự chú ý của số đông, những hành động ngông thường mang tính chất ngang tàng, phóng túng, đùa cợt. Ngông cũng là một cách sống, cách sống ấy vượt ra ngoài khuôn khổ của xã hội đương thời, trở thành một thách thức với xã hội đó. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội tiêu biểu cho cá tính khác biệt của Tản Đà trong thi đàn văn chương lúc đó,

Trước hết, chất “ngông” trong bài thơ thể hiện ở nỗi buồn chán thực tại và muốn thoát li vào cõi mộng. Mở đầu bài thơ là một lời than thở, một nỗi sầu da diết nhưng cũng là một tâm sự rất chân thành:

                        Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

                        Trần thế em nay chán nửa rồi.

Trong đêm thu với ánh trăng sáng rọi, tỏa ánh sáng chan hòa khắp nhân gian. Và lòng thi sĩ như muốn thổ lộ những tâm tư, tình cảm chẳng biết nói cùng ai. Tác giả sử dụng cách gọi “chị - em” với chị Hằng trên cung trăng, thể hiện sự thân thiết, gần gũi để có thể giãi bày, chia sẻ. Nỗi buồn ấy được tác giả thể hiện rất cụ thể “buồn lắm – trần thế - chán nửa rồi”. Câu thơ man mác sự buồn và chán. Tìm hiểu về thời thế thực tại mà tác giả đang sống, chúng ta thấu hiểu hơn tâm trạng của nhà thơ. Nước ta những năm đầu thế kỉ XX sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến ngột ngạt, thối nát, nhân dân ta chìm đắm trong cảnh lầm than khổ cực. Là một thi sĩ đa sầu, đa cảm, đứng trước thực tại nhưng chẳng thể đổi thay điều gì, vì thế mà tâm trạng thi nhân như bế tắc trước thực tại và chán nản, bất mãn với thời cuộc. Bởi vậy tác giả đành gửi gắm ước mơ lên cõi mộng:

                        Cung quế đã ai ngồi đó chửa

                        Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Nỗi buồn của nhà thơ bắt nguồn từ đó và vì thế người muốn tìm lối thoát, muốn sống ở một thế giới khác – thế giới của thần tiên và mơ mộng. Lời đề nghị của thi nhân đưa ra thật dịu dàng, duyên dáng và hóm hỉnh. Câu thơ đưa ra để hỏi nhưng cũng là lời đề nghị, lời cầu xin được đưa vào cõi mộng. Lời đề nghị ấy là một ước muốn ngông cuồng, ngạo nghễ bởi thế giới thần tiên chỉ là cõi mộng xa xôi. Ông muốn được lên cung trăng để nhìn xuống thế gian, muốn đứng hơn người để mà trông, mà ngắm, mà suy xét việc đời. Bởi ở nơi ấy, nhà thơ không phải chứng kiễn những nỗi buồn nhân thế, nỗi đau của người con mất nước.

Khát vọng lên cung trăng với chị Hằng, thể hiện cuộc sống tốt đẹp, được tự do làm bạn với gió, với mây:

                         Có bầu có bạn can chi tủi

                        Cùng gió, cùng mây thế mới vui

Câu thơ diễn tả niềm vui thích, suong sướng của thi nhân khi nghĩ về cõi mộng. Nơi ấy có bầu bạn, có cuộc sống ngao du chứ không phải là một thực tại đầy bức bối và kìm hãm con người. Tác giả sử dụng điệp từ “có”, “cùng” và cách ngắt nhịp 2/2/3 tạo nên giọng thơ vui tươi, rộn ràng. Thi sĩ lên cung quế có bạn, có bè quên đi nỗi ngán ngẩm, chán nản và giải toả được nồi buồn – ông đã vui, đã cười – ông cười tất cả những giành giật, nhố nhăng nơi trần thế, cười sung sướng khi thấy cõi trần không ai được như ông, được hưởng cuộc sông thần tiên thoát tục.

Ước muốn làm thằng Cuội được thể hiện rõ ràng hơn trong hai câu thơ cuối:

                      Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

                     Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Chất “ngông” ấy của Tản Đà được thể hiện trong mạch cảm xúc của bài thơ. Từ tâm trạng buồn tủi, chán nản với thực tại ở cõi thực, tác giả gửi gắm mong ước được sống trong cõi mộng. Để từ đó được vui, được cười, được sánh đôi cùng chị Hằng cưỡi trăng lượn gió. Và ước muốn xa hơn là được tựa vai bên chị Hằng để cùng nhìn xuống thế gian. Chữ “cười” được đặt cuối bài thơ như thể hiện rõ nhất ước muốn của nhà thơ. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi trong ước vọng được thoát tục, rồi bỏ được trần ai mà lên tiên. Cười còn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những sầu khổ, cô đơn dưới kia.

Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật cổ điển nhưng vẫn để lai dấu ấn của tác giả với cách sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị và thể hiện rõ tâm trạng cá nhân. Tản Đà muốn sống thoải mái hơn bởi thời đại đang chuyển động, khẳng định cái tôi cá nhân một cách mạnh mẽ. Những mong muốn và cá tính riêng được trân trọng. Bài thơ đã thể hiện rõ phong cách thơ của thi nhân, muốn xa rời cõi tục và mơ mộng gửi hồn vào cõi mơ, để được cười và thoát khỏi những khổ đau trong cõi nhân gian nhỏ bé. Qua đó, cũng thể hiện ước muốn của tác giả về một cuộc sống tốt đẹp hơn nơi trần thế.

Bài thơ đã khiến chúng ta hiểu hơn về Tản Đà, nhà thơ của những vần thơ đậm chất ngông. Có lẽ đó là cách mà thi nhân ứng xử với thời cuộc hiện tại. Nó còn gắn liền với cá tính phóng túng của nhà thơ. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã bộc lộ tâm sự của tác giả, thể hiện nỗi buồn nhân thế do bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, xấu xa và khát vọng muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

Bài tập 4:  Viết một đoạn văn nêu cảm nhận về bài thơ Muốn làm thằng cuội

Bài thơ được viết theo thể thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với ngôn ngữ giản dị, gần gũi thể hiện những tâm sự sâu lắng trong tâm hồn thi nhân. Hai câu đầu mở ra như một lời tâm sự chân thành của tác giả về nỗi sầu bi, chán ghét cuộc sống thực tại, nơi người dân phải chịu bao lầm than ai oán mà không có cách nào thoát ra. Trước nỗi buồn đó, tác giả đã gửi gắm ước mơ được đến với chị Hằng, với cung trăng để bầu bạn với mây cao gió mát. Đó cũng là ước muốn về một cuộc sống thanh cao, tốt đẹp hơn, nơi ấy con người được tự do và chan hòa với thiên nhiên. Chất mộng ảo, mong muốn thoát tục, lãng mạn thấm đượm trong bài thơ, khiến thi nhân như tạm quên đi những đau khổ và buồn chán trong cuộc sống thực tại. Tư thế ngồi “tựa lưng”, thảnh thơi ngắm nhìn từ trên tầng cao của vũ trụ, cùng nhìn xuống mà nở nụ cười thách thức nhân gian ô trọc, bé nhỏ, hèn mọn. Hình ảnh này đã thể hiện đậm nét sự lãng mạn và cái ngông của Tản Đà, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Cái cười ở lời kết của bài thơ như thể hiện niềm vui, thỏa mãn ước mong về khát vọng thoát li, xa lánh bụi trần nhưng đó cũng là tiếng cười mỉa mai, khinh bỉ cõi trần.

 

Tìm kiếm google: Muốn làm thằng Cuội ngữ văn 8 tập 1. soạn bài Muốn làm thằng Cuội, trả lời câu hỏi bài Muốn làm thằng Cuội ngữ văn 8 tập 1.

Xem thêm các môn học

Soạn văn 8 tập 1 ngắn nhất


Đia chỉ: Tòa nhà TH Office, 90 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại hỗ trợ: Fidutech - click vào đây
Chúng tôi trên Yotube
Cùng hệ thống: baivan.net - Kenhgiaovien.com - tech12h.com