[toc:ul]
Câu 1: Có lần, một giáo sư Việt Nam nhận được thư mời dự đám cưới của một nữ học viên người châu Âu đang học tiếng Việt. Trong thư có dòng chữ:
“Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự”.
Lời mời trên có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ như thế nào? Vì sao có sự nhầm lẫn đó?
Câu 2: Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả của văn bản chỉ là một người nhưng vẫn xưng chúng tôi chứ không xưng tôi. Giải thích vì sao?
Câu 3: Đọc đoạn trích trong Thánh Gióng. Phân tích từ xưng hô mà cậu bé dùng để nói với mẹ mình và nói với sứ giả. Cách xưng hô như vậy nhằm thể hiện điều gì?
Câu 4: Phân tích cách dùng từ xưng hô và thái độ của người nói trong câu chuyện
Chuyện kể, một danh tướng có lần đi ngang qua trường học cũ của mình, liền ghé vào thăm. Ông gặp lại người thầy từng dạy mình hồi nhỏ và kính cẩn thưa:
- Thưa thầy, thầy còn nhớ con không? Con là…
Người thầy giáo già hoảng hốt:
- Thưa ngài, ngài là…
- Thưa thầy, với thầy, con vẫn là đứa học trò cũ. Con có được những thành công hôm nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày nào…
Câu 5: Đọc đoạn trích từ Những năm tháng không thể nào quên (Võ Nguyên Giáp kể). Phân tích tác động của việc dùng từ xưng hô trong câu nói của Bác. (Chú ý so sánh: Trước năm 1945, người đứng đầu nhà nước có xưng hô với người dân của mình như vậy không?)
Câu 6: Đọc đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chú ý những từ ngữ in đậm.
Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ:
- Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!
Hoảng quá, anh Dậu vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì. Người nhà lí trưởng cười một cách mỉa mai:
- Anh ta lại sắp phải gió như đêm qua đấy!
Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:
- Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai, để ông ấy ra đình kêu với con cho! Chứ ông lí tôi thì không cso quyền dám cho chị khất thêm một giờ nào nữa.
Chị Dậu run run:
- Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất...
Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:
- Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất?
Chị Dậu vẫn thiết tha:
- Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông có chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!
Cai lệ giọng vẫn hầm hè:
- Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!
Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng:
- Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!
Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng, ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, cai lệ giật phắ cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu.
Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:
- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
- Tha này! Tha này!
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.
Hình như tức quá không thể chịu được nữa, chị Dậu liều mạng cự lại:
- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!
Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu.
Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
- Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
Các từ ngữ xưng hô trong đoạn trích trên được ai dùng và dùng với ai? Phân tích vị thế xã hội, thái độ, tính cách của từng nhân vật qua cách xưng hô của họ. Nhận xét sự thay dổi cách xưng hô của chị Dậu và giải thích lí do của sự thay đổi đó.
Câu 1: Lời mời dự đám cưới có dòng chữ “Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự” là có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ.
Theo cách nói của các ngôn ngữ Ấn – Âu, Cô sinh viên không phân biệt chúng với chúng tôi trong khi người Việt Nam lại có sự phân biệt này.
Câu 2: Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả chỉ là một nhưng vẫn xưng chúng tôi vì người viết muốn :
Câu 3: Trong truyện Thánh Gióng, đứa bé gọi mẹ mình theo cách gọi thông thường.
Khi xưng hô với sứ giả thì dùng: ta – ông. Cách xưng hô như vậy cho thấy Thánh Gióng là một đứa bé kì lạ, khác thường.
Câu 4: Phân tích cách dùng từ xưng hô và thái độ của người nói:
Vị tướng tuy đã trở thành một nhân vật nổi tiếng, có quyền cao chức trọng, nhưng khi gặp lại thầy giáo cũ, vẫn gọi thầy cũ của mình là thầy và xưng em.
=> Thể hiện sự kính cẩn và biết ơn thầy giáo cũ..
Câu 5: Trước cách mạng tháng tám 1945, nước ta là một nước phong kiến, nhà vua xưng trẫm với dân chúng để thể hiện sự uy nghi, cách biệt.
Việc Bác Hồ - người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, xưng "tôi" và gọi dân chúng là "đồng bào" tạo cho người nghe cảm giác gần gũi, thân thiết, tạo sự thân mật giữa người nói với người nghe.
Câu 6: Cách xưng hô ở lời nói của cai lệ nói với anh Dậu, chị Dậu: thằng kia, ông, mày, chị…
Chị Dậu (thấp cổ bé họng, lại đang thiếu sư): xưng hô cháu, nhà cháu – ông.
Cai lệ (cậy quyền, cậy thế nên hống hách): xưng hô ông – thằng kia, mày.
Cách xưng hô thay đổi: chuyển sang tôi – ông rồi sang bà – mày. Đó là hành vi thể hiện sự "tức nước – vỡ bờ", sự tự vệ cần thiết để bảo vệ chồng của chị.
Câu 1: Lời mời dự đám cưới của một nữ học viên người châu Âu có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ. Do Cô sinh viên không phân biệt chúng với chúng tôi (theo cách nói Ấn – Âu), Cô sinh viên không phân biệt chúng với chúng tôi.
Câu 2: Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả chỉ là một nhưng vẫn xưng chúng tôi vì người viết muốn thể hiện tính khách quan của các luận điểm và sự khiêm tốn của người viết.
Câu 3: Cách xưng hô với xứ giả và mẹ:
Khi xưng hô với mẹ: theo cách thông thường.
Khi xưng hô với sứ giả: ta – ông
=> Cách xưng hô thể hiện cậu là một đứa trẻ khác thường, có thể làm nên chuyện lạ.
Câu 4: Cách xưng hô của người nói (Vị tướng): Gặp thầy giáo cũ xưng em – gọi thầy. Tuy có quyền cao chức trọng, địa vị cao nhưng vẫn không thay đổi cách xưng hô khi gặp thầy cũ. thể hiện sự khiêm tốn, lịch sự và thể hiện sự tôn trọng của vị tướng.
Câu 5: Tác động của việc dùng từ xưng hô trong câu nói của Bác:
Trước năm 1945: xưng trẫm => thể hiện sự uy nghi, cách biệt địa vị.
Bác Hồ: xưng tôi – đồng bào => cảm giác gần gũi, thân thiết, tạo sự thân mật, không có sự cách biệt.
Câu 6: Cách xưng hô của Chị Dậu lúc đầu cho thấy sự thấp cổ bé họng, không có vị thể (xưng hô cháu, nhà cháu – ông) nhưng lúc sau cách xưng hô đó thể hiện sự "tức nước – vỡ bờ” (xưng hô tôi – ông rồi sang bà – mày). => hành vi thể hiện sự "tức nước – vỡ bờ" vì bị chèn ép.
Câu 1: Cô sinh viên đã nhầm lẫn trong cách dùng từ khi mời dự đám cưới có dòng chữ “Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự”
=> Sự khác biệt giữa cách nói Ấn – Âu và tiếng Việt ( cô sinh viên không phân biệt chúng ta với chúng tôi trong khi người Việt Nam lại có sự phân biệt này).
Câu 2: Tác giả muốn thể hiện tính khách quan của các luận điểm và thái độ khiêm tốn của tác nên nhiều khi tác giả của văn bản chỉ là một người nhưng vẫn xưng chúng tôi chứ không xưng tôi trong văn bản khoa học.
Câu 3: Trong truyện Thánh Gióng, đứa bé gọi mẹ mình theo cách gọi thông thường, gọi xứ giả bằng ta – ông. => đứa bé kì lạ, khác thường, có thể làm nên chuyện khác người.
Câu 4: Câu chuyện về một vi danh tướng trên đường đi kinh lí, ghé vào thăm trường cũ, khi gặp thầy đã xưng hô là “em – thầy” => thể hiện sự kính cẩn và biết ơn thầy giáo cũ, thể hiện sự tôn trọng người đối thoại với mình..
Câu 5: Cách xưng hô “tôi – đồng bào” của Bác Hồ thể hiện sự gần gũi, thân thiết, coi nhau như ruột thịt của Bác đối với người dân. Còn trước cách mạng tháng tám 1945 nhà vua xưng trẫm với dân chúng thể hiện sự uy nghi, cách biệt.
Câu 6: Phân tích cách xưng hô của Chị Dậu:
=> thể hiện sự "tức nước – vỡ bờ”