[toc:ul]
1. Tác giả: Lí Thường Kiệt ( ? ) ( 1019 -1105 ) tên thật Ngô Tuấn, quê ở Hà Nội.
2. Hoàn cảnh sáng tác:
Năm 1077, quân Tống cho quân sang xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn đánh ở sông Như Nguyệt. Bổng một đêm, quân sĩ nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống, Trương Hát có tiếng ngâm bài thơ này.
3. Thể thơ: Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ( bài thơ có 4 câu, mỗi câu 7 chữ, thường gieo vần chân – cuối câu 1,2,4).
Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt được ra đời vào thời kì nhà Đường có nguồn gốc từ Trung Quốc. Để nhận dạng ta chỉ cần phân biệt:
Thơ chỉ có 4 câu và mỗi câu 7 chữ. Như vậy trong một bài thơ chỉ có 28 chữ.
Các câu 1,2,4 hoặc chỉ các câu 2,4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối
Bốn câu trong bài theo thứ tự là các câu: khai, thừa, chuyển, hợp.
Cho đến thời điểm này, bài thơ Nam quốc sơn hà vẫn được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta.
Tuyên ngôn độc lập chính là lời tuyên bố chủ quyền độc lập của đất nước và không một thế lực nào có thể xâm phạm được.
Nội dung tuyên ngôn độc lập trong bài “Nam quốc sơn hà” là:
Sông núi nước Nam là một bài thơ thiên về biểu ý bởi bài thơ đã trực tiếp nêu rõ ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống ngoại xâm. Cụ thể là:
Hai câu đầu: chủ quyền dân tộc.
=>Như vậy tuyên bố chủ quyền dựa trên chân lí cuộc đời, chân lí đất trời, dựa trên lẽ phải. Chủ quyền nước Nam là không thể chối cãi, không thể phụ nhận.
Hai câu cuối: quyến tâm bảo vệ chủ quyền.
=> Nhận xét bố cục: Bố cục rất chặt chẽ giống như một bài nghị luận. Hai câu đầu nêu lên chân lí khách quan, hai câu sau nêu vấn đề có tính chất hệ quả của chân lí đó.
Bài thơ sông núi nước Nam ngoài tính biểu ý còn có tính biểu cảm. Có thể tính biểu cảm ở đây không được bộc lộ rõ ràng nhưng khi đọc những câu thơ ta cũng ngầm hiểu được tình yêu nước mãnh liệt của tác giả. Những từ ngữ “tiệt nhiên”, “định phận tại thiên thư” hay “hành khan thủ bại hư” ta cũng thấy được khí phách anh hùng, mạnh mẽ và bất khuất của dân tộc.
Như đã nói ở trên câu 4, bài thơ sông núi nước Nam ngoài tính biểu ý còn có tính biểu cảm. Tính biểu cảm được thể hiện mạnh mẽ trong những cụm từ “tiệt nhiên” (rõ ràng, dứt khoát, như thế và không thể khác), “định phận tại thiên thư”(được quy định bởi sách trời), “hành khan thủ bại hư”(chắc chắn sẽ thất bại). Thông qua những cụm từ này ta thấy được một giọng điệu hào sảng, hùng hồn đanh thép, thể hiện sự mạnh mẽ, quyết liệt để đánh bại kẻ thù của toàn dân tộc.
Trong hoàn cảnh này, quân Tống (Trung Quốc) đang đem quân xâm lược bờ cõi nước ta. Mà thời bấy giờ, người Trung Quốc cổ đại tự coi mình là trung tâm của vũ trụ nên vua của họ được gọi là “đế”, các nước chư hầu nhỏ hơn bị họ coi là “vương” (vua của những vùng đất nhỏ). Vì vậy, trong bài thơ này, tác giả đã cố ý dùng từ “Nam đế” (vua nước Nam) để hàm ý sánh ngang với “đế” của nước Trung Hoa rộng lớn. Ngoài ra, trong xã hội phong kiến, vua được xem là đại diện cho cả dân tộc, tư tưởng trung quân đồng nhất vua với nước, nước là của vua. Vì vậy, tác giả sử dụng từ ngữ như vậy là hợp lý.