[toc:ul]
Tìm hiểu chung tác phẩm
Tác giả
- Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) xuất thân trong một gia đình nhà nho, quê ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh (nay là Dục Tú, Đông Anh, Hà Nội).
- Ông sớm tham gia cách mạng và hoạt động trong những tổ chức văn hóa nghệ thuật do Đảng lãnh đạo (năm 1943, tham gia hội văn hóa cứu quốc; tháng 8 -1945, là đại biểu văn hóa cứu quốc đi dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào. Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch.
- Văn phong của ông vừa giản dị vừa trong sáng, đôn hậu, thâm trầm mà sâu sắc. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính của Nguyễn Huy Tưởng: các vở kịch Vũ Như Tô (1941), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948), kịch bản phim Lũy hoa (1960); các tiểu thuyết Đêm hội long trì (1942), An Tư (1945), Sống mãi với thủ đô (1961); kí: kí sự Cao – Lạng (1951),…
Tác phẩm
- Vũ Như Tô là vở kịch lịch sử năm hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517, dưới triều Lê Tương Dực. Tác phẩm được viết vào mùa hè năm 1941, đề tựa tháng 6 – 1942. Từ vở kịch ba hồi đăng trên tạp chí Tri tân năm 1943 -1944, được sự đóng góp của nhiều nhà văn tiến bộ, Nguyễn Huy Tưởng đã sửa lại thành vở kịch năm hồi.
- Tóm tắt tác phẩm:
Vũ Như Tô, một kiến trúc sư thiên tài bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để là nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Vốn là một nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, cho nên bị vua Lê Tương Dực dọa giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài (hồi I).
Đan Thiềm một cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu cầu của Lê Tương Dực, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn, trổ hết tài năng để xây dựng cho đất nước một tòa lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao”, có thể “tranh tinh xảo với hóa công” để cho dân ta nghìn thu còn hãnh diện
Theo lời khuyên, Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ, chấp nhận xây Cửu Trùng Đài. Từ đó, ông dồn hết tâm trí và bằng mọi giá xây dựng tòa đài sao cho thật hung vĩ tráng lệ. Ông đã vô tình gây biết bao tai họa cho nhân dân: Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tang thêm sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi,tróc nã hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua làm cho dân cùng nước kiệt; thợ giỏi oán Vũ Như Tô vì nhiều người chết vì tai nạn, vì ông cho chém những người chạy trốn. Công cuộc xây dựng càng gần kề thành công thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị xa hoa trụy lạc với nhân dân càng gay gắt, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người dân lao động mà ông hằng yêu mến ngày càng gay gắt.
Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn đấy, Quận công Trịnh Duy Sán - kẻ cẩm đàu phe đối lập trong triều đình, đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài bị chính những người thợ đó đập phá, tiêu hủy.
- Văn bản dưới đây là hồi V của vở kịch.
Câu 1: Các mâu thuẫn cơ bản của kịch Vũ Như Tô được thể hiện như thế nào trong hồi V?
Trả lời:
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lý tưởng nghệ thuật cao siêu với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân.
Mâu thuẫn cơ bản của kịch ở hồi V là hai mâu thuẫn:
Mâu thuẫn trực trực tiếp đó là việc dân chúng đứng lên đấu tranh trống lại triều đình. Mâu thuẫn cơ bản là bắt nguồn từ việc vua quan sống sa đọa, ăn chơi thỏa thích mà đời sống người dân thì cùng cực, nghèo khổ. Mặc cho nhân dân phải chịu những cực khổ như thế nào vua vẫn trà đạp lên những công sức lao động của họ mà hưởng lạc.
Mâu thuẫn thứ hai chính là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần túy và về lợi ích thiết thực của việc xây Cửu Trùng Đài giữa mục đích của vua Lê Tương Dực và của Vũ Như Tô.Mâu thuẫn này đã đưa đến cái chết của Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài bị thiêu trụi.
Cuộc đối thoại giữa Đan Thiềm và Vũ Như Tô ở lớp I của hồi kịch cho thấy Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ chỉ biết vì nghệ thuật, việc xây Cửu Trùng Đài ông coi đó là một sự cống hiến nghệ thuật cho dân chúng và ông không nghĩ rằng đằng sau là cả một tai họa dân chúng chịu cảnh lầm than. Mục đích nghệ thuật của ông mâu thuẫn gay gắt với quyền lợi thiết thực của dân chúng mà ông không nhận ra được.Ông quên đi mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống bởi vậy mà ông không thể hiểu điều Đan Thiềm nói. Còn đối với dân chúng sự vùng lên là tất lẽ bởi họ đấu tranh cho quyền lợi của họ, họ chỉ biết Cửu Trùng Đài là nguyên nhân, nguồn gốc dẫn đến việc cuộc sống của họ phải lầm than. Giữa Vũ Như Tô – một người nghệ sĩ có mục đích cao đẹp không có tiếng nói chung với nhân dân lao động.
Câu 2: Phân tích tính cách, diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong đoạn trích?
Trả lời:
Vũ Như Tô: say sưa trong lí tưởng nghệ thuật đến mức quên cả thực tế đang diễn ra xung quanh: từ lời cầu xin của Đan Thiềm, việc Lê Tương Dực bị giết, quân nổi loạn .... Đến khi Ngô Hạch ra lệnh bắt ông vẫn tin là mình không có tội, vẫn mơ tưởng đến việc làm một "tòa đài hoa lệ" để "tranh tinh xảo với hóa công". Thậm chí, khi kinh thành phát hỏa, ông vẫn chưa tỉnh ngộ, cho đến khi công trình bị đốt,ông mới rú lên chua chát. Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ có tài với mục đích chân chính, là một người nghệ sĩ có tài và tâm đối với nghệ thuật. Do ông quá đam mê nhiệt huyết với con đường nghệ thuật của mình hy vọng những cái tốt đẹp nhất được cống hiến tài năng cửa mình cho đất nước.Khi nghe lời khuyên của Đan Thiềm, nhận xây Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô là người nghệ sĩ chỉ quan tâm đến nghệ thuật. Ông luôn ở tron tâm trạng mơ màng, ảo vọng.Ông không thể hiểu và không tin tâm huyết của mình đối với đất nước lại bị coi thường. Việc làm của ông đã dẫn đến một tai họa không lường trước được.
Đan Thiềm là một người có tâm, là người yêu quý và tôn trọng nghệ thuật, tôn trọng người tài. Đan Thiềm rất kính trọng tài năng của Vũ Như Tô, bà đã khuyên Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài với mục đích cống hiến tài năng nghệ thuật cho đất nước. Nhưng chính lời khuyên ấy bà đã nhận ra đó là sai lầm rồi đến cuối cùng trước khi bà chết đã nhận ra rằng sự thất bại của giấc mộng lớn mà bà mong một Vũ Như Tô thực hiện. Một con người yêu mên nghệ thuật và kính trọng những tài năng như bà khi nhìn thấy cảnh Cửu Trùng Đài bị cháy và Vũ Như Tô chết như vậy bà đau đớn tột cùng và đã thốt lên “ Đài lớn tan tành. Ông Cả ơi ! Xin cùng ông vĩnh biệt!”.
Vũ Như Tô và Đan Thiềm là hai con người cùng có tấm lòng cao cả tri kỉ, cùng mục đích nghệ thuật tốt đẹp nhưng cái kết thất bại thật thương tâm. Cửu Trùng Đài là biểu tượng tâm huyết của cả hai con người này đã bị hủy hoại, hai người thật đáng thương, đáng kính trọng hơn là đáng trách.
Nhà văn qua đây đã bộc lộ được sự cảm thông và trân trọng của chính tác giả đối với hai con người tri âm tri kỉ nhưng phải chịu một số phận nghiệt ngã, bất hạnh này.
Câu 3: Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy muôn đời và lợi ích....
Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy muôn đời và lợi ích thiết thân của nhân dân chưa được tác giả giải quyết dứt khoát. Điều đó, được thể hiện như thế nào ở hồi cuối cùng của vở kịch? Theo anh chị nê giải quyết mâu thuẫn đó như thế nào?
Trả lời:
Mâu thuẫn giữa quan điểm nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời và lợi ích của nhân dân trong đoạn trích vẫn chưa được giải quyết dứt khoát. Điều này được thể hiện ở phần cuối của vợ kịch. Quần chúng nổi dậy giết Vũ Như Tô, phá hủy Cửu Trùng Đài. Bản thân Vũ Như Tô bị giết nhưng vẫn chưa nhận ra sai lầm của mình. Vũ Như Tô không đứng về phe Lê Tương Dực nhưng vẫn muốn hoàn thành công trình nghệ thuật. Chính tác giả cũng băn khoăn vì kết cục này.
Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần túy và lợi ích thiết thực của nhân dân là mâu thuẫn không giải quyết được.Bởi vậy, tác giả chưa giải quyết được triệt để mâu thuẫn này là tất lẽ. Cái kết cuối cùng của số phận tài hoa mà bạc mệnh một cái chết mà không hiểu lí do vì sao mình chết. Vũ Như Tô, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài đều bị hủy diệt đã để lại những khúc mắc, mâu thuẫn, mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện được phần nào mối quan hệ này trong đoạn trích của mình. Cái gọi là nghệ thuật đích thực thì phải thống nhất với quyền lợi của con người thì mới có thể thăng hoa và tồn tài được. Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vị con người.
Câu 4: Đặc sắc về nghệ thuật của kịch Vũ Như Tô được thể hiện qua đoạn trích?
Trả lời:
Đoạn trích thể hiện những đặc sắc về nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao, dùng ngôn ngữ, hành động của nhân vật để khắc họa tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt và đẩy xung đột lên cao trào. Lớp kịch trong hồi V được chuyển một cách linh hoạt, tự nhiên, logic, liền mạch tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.
[Luyện tập] Câu 1: Trong lời đề tựa kịch Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng viết:
"Than ôi ! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết.
Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm".
Bằng những hiểu biết về đoạn trích và về vở kịch, anh (chị) hãy phát biểu ý kiến của mình về lời tựa trên.
Trả lời:
- Nguyễn Huy Tưởng là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học hiện đại . Sự nghiệp sáng tác của ông kéo dài từ những năm bốn mươi đến những năm năm mươi của thế kỉ XX. Ông nổi tiểng là một nhà viết kịch và một tác giả tiểu thuyết chuyên viết về đề tài lịch sử. Đặc biệt, ông là một trong số không nhiều những tác giả kịch nói xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
- Vũ Như Tô là vở bi kịch lịch sử xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng và cũng là vở bi kịch xuất sắc nhất của nền kịch nói Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được viết trước Cách mạng, được xây dựng từ nhiều yếu tố có thật trong lịch sử. Từ một câu chuyện chỉ xuất hiện thoáng qua trong chính sử, Nguyễn Huy Tưởng muốn khái quát hoá thành những vấn đề vô cùng lớn lao của con người nói chung: nghệ sĩ và nhân dân, cái đẹp vĩnh cửu, muôn đời, vĩ đại với những lợi ích thiết thực, trước mắt.
- Trích đoạn Vĩnh biệt cửu trùng đài là hồi cuối cùng của vở kịch. Kiến trúc sư thiên tài Vũ Như Tô theo lời Đan Thiềm mượn tay bạo chúa Lê Tương Dực để thực hiện giấc mộng xây công trình vĩ đại Cửu Trùng Đài "tranh tinh xảo với hoá công”, “thách cả những công trình sau trước”. Để xây Cửu Trùng Đài, Lê Tương Dực đã huy động tất cả sức người, sức của, đẩy nhân dân đến chỗ cực độ lầm than từ đó tạo nên mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô và nhân dân. Dân chúng oán thán Vũ Như Tô, đổ hết tội lỗi cho ông: “vua xa xỉ là vì ông. Công khố hao kiệt là vì ông, dân gian lầm than vì ông, man di oán hận vì ông, thần nhân trách móc là vì ông”. Trong khi đó, trong triều, Lê Tương Dực cũng gây ra oán thù với Trịnh Duy Sản - một viên tướng bất phục muốn cướp quyền lực từ tay Lê Tương Dực. Trong hồi cuối cùng, lợi dụng sự oán thán của dân chúng, Trịnh Duy Sản đã dấy binh nổi loạn, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô và đốt Cửu Trùng Đài.
- Nếu căn cứ vào diễn biến của vở kịch thì những kẻ trực tiếp giết Vũ Như Tô chính là binh lính nổi loạn dưới quyền Trịnh Duy Sản. Tuy vậy, nhìn sâu xa hơn, cuộc nổi loạn đó chỉ có thể diễn ra khi có sự ủng hộ của dân chúng, những người đã quá oán thán công trình Cửu Trùng Đài và Vũ Như Tô.
- Trịnh Duy Sản và đám lính nổi loạn giết Vũ Như Tô đúng hay sai? Bề ngoài, Trịnh Duy Sản tưởng như là kẻ nắm được “chính nghĩa”, là kẻ giết một bạo chúa, đáp ứng nỗi bất bình của nhân dân quá đau khổ vì công trình Cửu Trùng Đài nhưng nếu nhìn vào những gì chính Trịnh Duy Sản và đám lính nổi loạn do Ngô Hạch cầm đầu đã làm thì mói thấy đó chỉ là sự lừa bịp. Trịnh Duy Sản giết vua chỉ để trả mối thù cá nhân và thoả khao khát quyền lực của mình. Quân nổi loạn cũng chỉ là những kẻ tham lam, háo sắc, cũng xiêu lòng trước sự quyến rũ của Kim Phượng và hiếu sát. Như vậy, có thể nói, thực chất, Trịnh Duy Sản chỉ lợi dụng sự bất bình của nhân dân để mưu tính cho riêng mình.
- Nhân dân, những người đã gián tiếp giết Vũ Như Tô: Nỗi bất bình của nhân dân là hoàn toàn chính đáng. Cuộc sống, hạnh phúc của họ bị tước đoạt và chà đạp chỉ để xây Cửu Trùng Đài thoả mãn thú ăn chơi của bạo chúa. Lợi ích thiết thực, cụ thể của họ bị hi sinh. Nhưng nhân dân vì quá bất bình đã trở nên mù quáng. Lòng căm giận đã biến họ thành mù quáng, đúng như lời Đan Thiềm: “Dân chúng nông nổi, dễ sinh tàn ác. Họ không hiểu công việc của ông”. Họ đã bị kích động để trở thành một đám người say mê đốt phá, đổ tất cả tội lỗi cho Vũ Như Tô. Đốt Cửu Trùng Đài, nhân dân đã huỷ diệt chính mồ hôi, xương máu của họ, làm đất nước mất đi một công trình tuyệt mĩ. Như vậy, dù có động cơ chính đáng nhưng nhân dân đã phạm phải một sai lầm không thể cứu chữa được.
- Vũ Như Tô, người nghệ sĩ thiên tài: Vũ Như Tô là một nhân vật bi kịch. Ông có tài năng vĩ đại, có khao khát thực hiện tài năng của mình, có khát vọng mãnh liệt và ý chí cũng mãnh liệt quyết tâm xây dựng công trình Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô là người nghệ sĩ, ông nghĩ đến cái đẹp trác tuyệt, cao cả, vượt lên tất cả, cái đẹp cho muôn đời, vĩnh cửu. Tất cả những điều đó là hoàn toàn chính đáng. Tuy vậy, khát vọng của Vũ Như Tô là một khát vọng không thực tế, không thể thực hiện được và vì thế, Vũ Như Tô đã phạm phải một sai lầm bi kịch là mượn tay bạo chúa thực hiện giấc mộng sáng tạo, do đó, gây ra lầm than cho nhân dân. Vũ Như Tô chỉ nghĩ đến những giá trị cao siêu, muôn đời, vĩnh cửu mà quên đi lợi ích thiết thực, ngay trong hiện tại của nhân dân. Vũ Như Tô mù quáng, đến tận hồi cuối cùng, ông vẫn ngơ ngác không thể hiểu được “Tôi làm gì nên tội?”, không thể hiểu được mình đã chà đạp lên quyền sống của nhân dân để thoả giấc mộng xây Cửu Trùng Đài. Chính vì vậy, mặc dù xuất phát từ một động cơ đúng đắn nhưng Vũ Như Tô cũng đã phạm phải sai lầm và đã đi đến chỗ bị huỷ diệt.
- Suy nghĩ của Nguyễn Huy Tưởng “Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết!” có lẽ chính là suy nghĩ về mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô và nhân dân, giữa khát vọng sáng tạo vẻ đẹp siêu việt, vĩnh cửu, bất tử cho muôn đời với những lợi ích thiết thực, ngay trong hiện tại. Cả hai bên đều đúng và cả hai bên đều sai vì đều mù quáng, chỉ nhìn thấy lợi ích của riêng mình và khiến mâu thuẫn trở nên xung đột trong bạo lực và huỷ diệt. Đó là sự băn khoăn và cũng là sự tiếc thương cho cả nhân dân và Vũ Như Tô.